Hệ Thống Chính Trị Việt Nam Có Những Đặc Điểm Gì

Hệ Thống Chính Trị Việt Nam Có Những Đặc Điểm Gì

Nền giáo dục ở Canada rất đặc biệt và ngày càng nhận được sự quan tâm của phụ huynh trên toàn thế giới khi muốn cho con mình tới quốc gia này du học.

Nền giáo dục ở Canada rất đặc biệt và ngày càng nhận được sự quan tâm của phụ huynh trên toàn thế giới khi muốn cho con mình tới quốc gia này du học.

Hệ thống giáo dục ở Canada có gì đặc biệt?

Giáo dục là một trong những mối ưu tiên hàng đầu của chính phủ Canada. Phần lớn trẻ em ở Canada học mẫu giáo trong 1 hoặc 2 năm từ năm 4 tuổi hoặc 5 tuổi, sau đó bắt buộc phải đi học từ năm 6 tuổi.

Tùy thuộc vào tỉnh, các trường học sẽ dạy học sinh cho tới năm lớp 11 hoặc 12, thường là đến năm 16 tuổi. Sau đó, học sinh có quyền lựa chọn có tiếp tục học cao hơn ở các trường đại học, cao đẳng hoặc trường nghề hay không.

Mặc dù có sự khác biệt giữa các tỉnh, bang nhưng nói chung người dân Canada bắt buộc phải đi học cho đến năm 16 tuổi và bao gồm 4 cấp độ.

Mặc dù không có một hệ thống giáo dục duy nhất ở Canada, nhưng trên thực tế, giáo dục công cơ bản miễn phí cho người dân Canada cho tới năm lớp 11 hoặc 12, tùy thuộc vào tỉnh bang. Tuy nhiên, sinh viên quốc tế phải trả toàn bộ học phí.

Năm 2014, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã tiến hành một nghiên cứu và phát hiện ra rằng các trường học ở Thượng Hải, Trung Quốc cho học sinh làm bài tập về nhà nhiều nhất thế giới. Trung bình, học sinh của họ dành 14 giờ mỗi tuần để làm bài tập về nhà. Trong khi đó, trẻ em Canada và Mỹ chỉ dành khoảng 6 tiếng mỗi tuần.

Xem thêm: Hộ chiếu Canada quyền lực như thế nào?

Tiền tiểu học hay mẫu giáo là giai đoạn giáo dục đầu tiên ở Canada, được cung cấp cho trẻ em từ 4 – 5 tuổi trước khi chúng bắt đầu học tiểu học. Ở New Brunswick và Nova Scotia, điều này là bắt buộc, trong khi ở những nơi khác thì không bắt buộc.

Ở hầu hết các khu vực, năm đầu tiên của trường mầm non là công lập và miễn phí. Một số tỉnh còn hỗ trợ cho trẻ học miễn phí nếu thuộc các gia đình có thu nhập thấp hoặc bị khuyết tật.

Chính phủ Canada quy định rằng, không nên giao bài tập về nhà cho học sinh mẫu giáo, cũng như không nên giao bài tập vào các ngày lễ.

Chương trình giảng dạy ở bậc mầm non ở Canada rất thoải mái, trẻ được bảng chữ cái, đếm số, âm nhạc, nghệ thuật. Các chương trình học được thiết kế đặc biệt để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo là tiểu học.

Trẻ em ở Canada bắt buộc phải học tiểu học, lớp 1(6~7 tuổi) và kéo dài đến lớp 6 (11~12 tuổi). Ở giai đoạn này, giáo dục này có xu hướng chỉ có một giáo viên dạy tất cả các môn học trong cùng một lớp học. Các lớp giáo dục đặc biệt cũng có sẵn.

Chương trình giảng dạy trước tiểu học bao gồm các môn như Đọc, Toán, tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp ở Quebec), Lịch sử, Khoa học, Âm nhạc, Nghiên cứu xã hội, thể dục và nghệ thuật. Điều đáng nói là các trường tiểu học ở Canada không sử dụng sách giáo khoa.

Đối với học sinh từ lớp 1 đến lớp 6, bài tập về nhà nên được "phân biệt để phản ánh nhu cầu riêng của từng trẻ". Ở những lớp đầu tiên, bất kỳ bài tập về nhà nào cũng đều ở dạng đọc, chơi trò chơi và các hoạt động tương tác, chẳng hạn như xây dựng và nấu ăn cùng gia đình.

Bên cạnh đó, học sinh phải tham dự kỳ thi chuẩn hóa tiểu học và trung học ở Canada nhưng chỉ ở một số tỉnh và vùng lãnh thổ ở Canada. Một số trường điểm số do giáo viên chấm trong quá trình giảng dạy, có điểm cuối kỳ và điểm tổng hợp.

Giáo dục trung học ở Canada có 2 cấp: trung học cơ sở và trung học phổ thông.

Trung học cơ sở hoặc giáo dục trung cấp được tiến hành ngay sau khi học xong tiểu học. Giai đoạn này kéo dài 2 năm bao gồm lớp 7 và lớp 8. 2 năm này giúp học sinh có cơ hội thích nghi với những thay đổi của việc chuyển đổi lớp học và giáo viên. Mục tiêu của giai đoạn này là giúp học sinh chuẩn bị tốt nhất cho bước học tiếp theo, với độ khó của các môn học trước đó tăng lên rất nhiều.

Đối với học sinh lớp 7 và 8, thời gian hoàn thành bài tập về nhà là 1 giờ hoặc ít hơn. Ở lớp 9 đến lớp 12, bài tập về nhà khoảng 2 giờ. Tuy nhiên, điều này còn cần phải dựa trên chương trình giảng dạy và tuỳ thuộc vào từng trường.

Trung học phổ thông là giai đoạn cuối cùng của giáo dục trung học khi học sinh lên lớp 8. Trung học phổ thông kéo dài trong 4 năm, từ lớp 9 cho tới lớp 11 hoặc lớp 12 (16-18 tuổi, tùy theo hoàn cảnh và tỉnh của học sinh). Có 8 môn học bắt buộc là Tiếng Anh, Toán, Nghiên cứu Xã hội, Khoa học, Giáo dục Thể chất, Kỹ năng Ứng dụng/Giáo dục Kinh doanh/Mỹ thuật, Lập kế hoạch và Chuyển tiếp Tốt nghiệp.

Theo luật, học sinh phải ở lại trường cho đến năm 16 tuổi, bất kể các em học lớp nào khi đến tuổi đó.

Ở Ontario và New Brunswick, luật quy định học sinh phải ở lại trường cho đến khi 18 tuổi hoặc cho đến khi lấy được bằng tốt nghiệp trung học thành công. Ở Quebec, giáo dục trung học kết thúc ở lớp 11, sau đó là chương trình dự bị đại học 2 năm được gọi là Cegep.

Sau khi tốt nghiệp trung học, học sinh Canada có cơ hội nộp đơn vào các trường cao đẳng và đại học. Sau khi tốt nghiệp đại học, sinh viên có thể học lên thạc sĩ, tiến sĩ.

Các loại hình giáo dục khác ở Canada

Ngoài các trường cao đẳng cộng đồng cung cấp đào tạo nghề, sinh viên còn có cơ hội học nghề tại các trường kỹ thuật trải khắp Canada. Nhiều năm trước, những chương trình như vậy không yêu cầu học sinh phải có bằng tốt nghiệp trung học, nhưng mọi thứ đã thay đổi rất nhiều trong những năm gần đây.

Các trường dạy nghề cho phép sinh viên Canada học ngành nghề cụ thể mà họ quan tâm và tích lũy kinh nghiệm thực tế dưới sự giám sát chuyên nghiệp và người có trình độ.

Các trường tư thục không được chính phủ tài trợ, thường có học phí đắt đỏ. Một số phụ huynh muốn con mình học trong các lớp nhỏ, được thầy cô quan tâm hơn hoặc không muốn gửi tới trường công vì lý do cá nhân.

Ở Quebec, những người không muốn học bằng tiếng Pháp và có đủ khả năng chi trả thường sẽ chọn một trường tư thục.

Những người muốn gửi con cái của họ đến các trường tôn giáo ở Canada phần lớn phải gửi chúng đến các cơ sở tư nhân, trừ một số trường Công giáo. Các trường này dạy cả chương trình học thông thường cũng như giáo lý tôn giáo gắn liền với tôn giáo cụ thể của trường.

Hy vọng qua bài viết này Globevisa đã giới thiệu đến bạn tổng quan về hệ thống giáo dục của Canada. Trong những năm gần đây nền giáo dục ở Canada nhận được sự quan tâm của rất nhiều phụ huynh trên toàn thế giới khi muốn cho con mình tới quốc gia này du học. Bạn và gia đình của mình có thể chuyển đến Canada sinh sống và làm việc để cho con cái được hưởng một nền giáo dục hiện đại và phát triển bằng các chương trình định cư Canada.

Để hành trình định cư thuận lợi và có cơ hội sở hữu hộ chiếu Canada cũng như trở thành công dân Canada, nhà đầu tư có thể đăng ký tham gia chương trình định cư Canada diện đầu tư như Canada Start-up Visa hay Chương trình Tự doanh liên bang (Federal Self-employed Persons Program).

Vui lòng liên hệ với Globevisa để được tư vấn 1-1 chi tiết và chuyên sâu nhất về các chương trình đầu tư định cư Canada cũng như chương trình định cư các nước trên thế giới.

Một số nét về hệ thống chính trị đảng phái ở Mỹ

Theo thống kê, ở Mỹ hiện có hàng trăm đảng lớn, nhỏ, nhưng chỉ có 28 đảng đủ điều kiện được ghi tên trong phiếu bầu ở các bang(1). Ngoài hai đảng lớn là Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ được công nhận tại tất cả 50 bang và đơn vị bầu cử ở Thủ đô Oa-sinh-tơn, có ba đảng được nhiều bang đưa vào danh sách bầu cử nhất là Đảng Tự do (33 bang), Đảng Xanh (21 bang) và Đảng Hiến pháp (15 bang)(2). Ở Mỹ có đảng cộng sản, nhưng lực lượng và ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Mỹ còn rất hạn chế.

Tại thời điểm trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ ngày 08-11-2016, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa Mỹ nắm giữ toàn bộ ghế ở Quốc hội liên bang và cấp bang. Hai đảng này chia nhau toàn bộ 435 ghế hạ nghị sĩ và 98/100 ghế thượng nghị sĩ(3), chiếm đại đa số ghế trong quốc hội cấp bang, với 1.908 ghế thượng viện và 5.351 ghế hạ viện, trong khi số nghị sĩ của cả đảng thứ ba hoặc độc lập lần lượt chỉ là 54 ghế và 28 ghế.

Để rõ hơn được hoạt động của hệ thống chính trị đảng phái ở Mỹ hiện nay cũng như của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa cần ngược dòng lịch sử. Năm 1787, Đảng Liên bang của Bộ trưởng Ngân khố A-lếch-xan-đơ Ha-min-tơn (Alexander Hamilton) được thành lập với chủ trương xây dựng chính quyền liên bang mạnh và thúc đẩy thương mại, vốn được các bang ở miền Bắc ủng hộ. Năm 1792, sau khi từ chức Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, ông Tô-mát Gie-phơ-xơn (Thomas Jefferson) đã cùng ông Giêm Ma-đi-xơn (James Madison) thành lập Đảng Dân chủ - Cộng hòa, với quan điểm ủng hộ quyền lực liên bang hạn chế và thúc đẩy nông nghiệp vốn có lợi cho các bang miền Nam. Ứng viên của Đảng Liên bang Giôn A-đam (John Adams) trúng cử và trở thành tổng thống thứ hai của nước Mỹ, tuy nhiên đây cũng là nhiệm kỳ cầm quyền duy nhất của Đảng này. Đảng Liên bang liên tiếp thất bại trước Đảng Dân chủ - Cộng hòa trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ từ năm 1800 rồi suy yếu, tan rã vào cuối những năm 20 của thế kỷ XIX.

Sau gần hai thập niên chi phối nền chính trị Mỹ, nội bộ Đảng Dân chủ - Cộng hòa bị phân liệt và chia rẽ. Trong cuộc bầu cử năm 1824, Đảng Dân chủ - Cộng hòa có đến bốn ứng viên ra tranh cử tổng thống, trong đó có An-đru Giắc-xơn (Andrew Jackson). Sau thất bại trong lần tranh cử đầu tiên, An-đru Giắc-xơn giành thắng lợi vang dội trong cuộc bầu cử năm 1828 và đổi tên Đảng Dân chủ - Cộng hòa thành Đảng Dân chủ tồn tại cho đến ngày nay. Những người phản đối An-đru Giắc-xơn và các thành viên cũ của Đảng Liên bang đã đứng ra thành lập Đảng Whig đối lập vào năm 1834. Hai đảng này chia nhau nắm giữ Chính quyền và Quốc hội Mỹ đến năm 1852, khi Đảng Whig chia rẽ do bất đồng trong việc duy trì hay bãi bỏ chế độ nô lệ. Năm 1854, liên minh những người phản đối chế độ nô lệ thuộc Đảng Whig cũ và những người Đảng Dân chủ ủng hộ việc trao những vùng đất mới sáp nhập vào Mỹ cho nông dân, thành lập Đảng Cộng hòa, tồn tại cho đến ngày nay. Đảng Cộng hòa thay thế Đảng Whig trở thành đảng đối lập trong nền chính trị Mỹ. A-ba-ham Lin-côn (Abraham Lincoln) là tổng thống đầu tiên của Đảng này, nhiệm kỳ 1861 - 1865. Kể từ đó đến nay, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa liên tục thay nhau nắm giữ Chính quyền và Quốc hội Mỹ.

Những rào cản chính đối với ứng viên độc lập hay thuộc đảng thứ ba

Đâu là những lý do dẫn đến các đảng khác không có cơ hội gây ảnh hưởng đến nền chính trị Mỹ?

Thứ nhất, đó là vấn đề tài chính. Có thể nói, các cuộc bầu cử tại Mỹ từ cấp bang đến liên bang đều rất tốn kém. Để được có tên trong danh sách tranh cử tổng thống, mỗi bang có những quy định khác nhau về số chữ ký thu thập được và/hoặc số tiền đặt cọc. Trên thực tế, số tiền đặt cọc là không đáng kể, chẳng hạn ứng viên phải nộp 1.000 USD ở bang Cô-lô-ra-đô (Colorado) hay chỉ 500 USD ở bang Lu-xi-a-na (Louisiana)(4). Ở một số bang khác, lại có yêu cầu phải thu thập đủ lượng chữ ký cần thiết, từ 1.000 chữ ký ở bang A-can-xát (Arkansas) thưa dân đến 178.039 chữ ký ở bang đông dân nhất là Ca-li-phoóc-ni-a. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016 của nước này, ước tính một ứng viên không thuộc Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa phải thu thập tổng cộng hơn 880.000 chữ ký để có tên trong danh sách được bầu tại các hòm phiếu. Những quy định này được gọi chung là Luật Tiếp cận hòm phiếu. Đáp ứng đủ 51 yêu cầu khác nhau từ 50 bang và khu vực bầu cử tại Thủ đô Oa-sinh-tơn là việc không hề đơn giản và cần những khoản chi phí lớn. Đây là rào cản đối với các ứng viên của đảng nhỏ hay độc lập. Luật Tiếp cận hòm phiếu này lại ưu ái cho các đảng lớn. Nếu trong lần bầu cử trước đó, đảng nào giành được đủ số phiếu cần thiết sẽ không phải đáp ứng điều kiện trên cho kỳ bầu cử sau. Điều đó có nghĩa là, hai đảng lớn sẽ không phải dành một phần thời gian và tiền bạc vốn đã dồi dào của mình để thu thập chữ ký, trong khi đây là yêu cầu bắt buộc đối với các đảng nhỏ hay ứng viên độc lập lần đầu tiên muốn ra tranh cử.

Bên cạnh đó, trong luật của nước Mỹ, không có bất cứ quy định tài chính nào đối với việc tranh cử vào các vị trí công quyền ở cấp bang và liên bang. Nếu là công dân Mỹ và sinh sống trong nước đủ lâu, khi 25 tuổi, người đó có thể ra tranh cử vào Hạ viện, 30 tuổi tranh cử thượng nghị sĩ, và 35 tuổi tranh cử chức tổng thống. Tuy nhiên, nếu muốn thắng cử, người đó cần rất nhiều tiền để vượt qua được rào cản kỹ thuật đầu tiên như đã đề cập ở trên.

Kể cả khi vượt qua được trở ngại này, ứng viên độc lập hay đảng thứ ba cũng cần huy động được đủ nhân lực và tài chính để thành lập và vận hành bộ máy tranh cử, chi cho các hoạt động quảng cáo và tiếp xúc cử tri. Những việc này cần được thực hiện ở toàn bộ 50 bang hay ít nhất giành thắng lợi ở các bang với tổng số phiếu đại cử tri đạt mức 270 phiếu. Đối với tranh cử Quốc hội ở cả cấp bang và liên bang, số tiền chi cho hoạt động quảng cáo thậm chí còn lớn hơn do các ứng viên ít được cử tri biết đến, trừ những người đang đương nhiệm vốn phần lớn thuộc một trong hai đảng chính. Trong những cuộc đua này, các ứng viên độc lập hay thuộc đảng thứ ba không thể “đấu lại” những nhân vật có tiếng tăm và bộ máy hùng mạnh của hai đảng đang chi phối nền chính trị Mỹ. Theo thống kê, nước Mỹ đã tiêu tốn gần 1,2 tỷ USD cho cuộc bầu cử tổng thống năm 2016, đó là chưa kể đến các cuộc bầu cử vào các ghế thống đốc, nghị sĩ Quốc hội bang và liên bang(5).

Thứ hai, đó là nguyên tắc có tên “Luật của Đu-vơ-giơ”. Năm 1950, nhà xã hội học người Pháp Mo-ri-xơ Đu-vơ-gơ (Maurice Duverger) đưa ra luận điểm rằng, những nước áp dụng nguyên tắc ứng viên nào có đa số phiếu giành chiến thắng có xu hướng theo hệ thống chính trị hai đảng. Trong phần lớn các cuộc bầu cử ở Mỹ, chỉ cần ứng viên nào giành được nhiều phiếu bầu nhất (không cần phải quá 50% số phiếu) sẽ giành thắng lợi tại đơn vị bầu cử đó. Ví dụ, trong cuộc bầu cử vào bang Pen-si-va-ni-a (Pennsylvania), ứng viên Hi-la-ry Clin-tơn giành được 40% phiếu, ứng viên Đô-nan Trăm được 38% phiếu, và ứng viên Ga-ri Giôn-xơn (Gary Johnson) của Đảng Tự do được 22% phiếu. Rõ ràng là, mặc dù bà H. Clin-tơn không được đa số người dân bang Pen-si-va-ni-a ủng hộ (60% không bầu cho bà H. Clin-tơn) nhưng kết quả là bà H. Clin-tơn lại giành chiến thắng tại bang này. Trong khi đó, mặc dù ứng viên của Đảng Tự do có 22% phiếu nhưng đảng này không có bất kỳ đại diện hay ảnh hưởng nào trong chính quyền mới.

Thứ ba, bắt nguồn từ hai rào cản trên. Trước khả năng đảng nhỏ thắng cử là rất khó khăn, thậm chí là không thể nên các nhà tài trợ sẽ không “đổ tiền” cho người có nhiều khả năng thua cuộc. Trong nền chính trị Mỹ, số tiền mà ứng viên huy động được cho mục đích tranh cử cũng là một chỉ dấu cho thấy khả năng thắng cử của ứng viên đó. Mặt khác, cử tri dù ủng hộ đường lối hay ưa thích ứng viên của một đảng thứ ba, sẽ phải cân nhắc khi sử dụng lá phiếu của mình. Nếu họ chọn bỏ phiếu cho ứng viên của đảng thứ ba, về cơ bản họ sẽ lãng phí lá phiếu của mình và việc đó có thể giúp cho ứng viên họ không hài lòng hơn của một trong hai đảng lớn thắng cử. Chẳng hạn, trong cuộc bầu cử tổng thống năm nay, ứng viên Gin Xtên (Jill Stein) của Đảng Xanh có thể thu hút phiếu của những cử tri ủng hộ vấn đề bảo vệ môi trường, những người cũng có thể bỏ phiếu cho bà H. Clin-tơn vốn có quan điểm thân thiện với môi trường trong khi ông Đ. Trăm không có quan điểm như vậy. Như thế, nếu như bỏ phiếu cho ông Gin Xtên, cử tri sẽ khiến bà H. Clin-tơn mất một lượng phiếu đáng kể và ông Đ. Trăm là người “hưởng lợi”.

Thứ tư, đó là hai đảng lớn “gạt ra bên lề và nuốt chửng” các đảng thứ ba hay các ứng viên độc lập. Thay nhau nắm giữ bộ máy chính quyền và Quốc hội từ đầu những năm 1950 đến nay, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa thống nhất với nhau trong việc tạo ra những quy định ngăn cản các đảng thứ ba cạnh tranh với mình. Hai cuộc tranh luận tổng thống vừa qua giữa ông Đ. Trăm và bà H. Clin-tơn thu hút lần lượt là 69 triệu và 84 triệu người theo dõi - những con số khổng lồ khi tính đến dân số Mỹ chưa đến 320 triệu người(6). Đây là cơ hội để ứng viên quảng cáo bản thân và trình bày các quan điểm, ý tưởng nhằm thuyết phục cử tri bỏ phiếu cho mình. Đơn vị tổ chức cuộc tranh luận cho ứng viên tổng thống là Ủy ban tranh cử tổng thống. Ủy ban này là tổ chức phi lợi nhuận, được thành lập từ năm 1987 với các thành viên từ Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa. Trong cuộc họp báo về việc thành lập Ủy ban, đại diện Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ thẳng thắn tuyên bố sẽ loại bỏ ứng viên của đảng thứ ba khỏi cuộc tranh luận(7). Trên thực tế, 19 thành viên của Ủy ban thuộc hai Đảng Dân chủ và Cộng hòa đã viết ra các điều kiện để bảo đảm không có ứng viên nào ngoài ứng viên của hai đảng này được tham gia tranh luận. Một trong những điều kiện đó là ứng viên phải được 15% dân chúng ủng hộ trong các cuộc thăm dò mới nhất vào 5 ngày trước khi cuộc tranh luận diễn ra.

Kể từ cuộc tranh luận tổng thống đầu tiên năm 1988 đến nay, ngoại trừ tỷ phú Pê-rốt được tham gia tranh luận (năm 1992), chưa ứng viên độc lập hay thuộc đảng thứ ba nào cán mốc ủng hộ 15% trên toàn nước Mỹ. Trên thực tế đã từng có những nỗ lực thách thức quy định này. Tháng 3-2015, gần 50 cựu quan chức của hai đảng Dân chủ và Cộng hòa gửi thư ngỏ kêu gọi thay đổi tiêu chí trên, với lập luận rằng Ủy ban khiến ứng viên của đảng thứ ba “không thể tham gia” và việc thiếu ứng viên của đảng thứ ba “cuối cùng sẽ làm phương hại đến nền dân chủ và chỉ phục vụ lợi ích của hai đảng lớn”(8). Cũng trong năm 2015, Đảng Tự do và Đảng Xanh đã cùng khởi kiện Ủy ban tranh cử tổng thống ra Tòa án Liên bang với lập luận rằng, điều kiện của Ủy ban đã vi phạm tu chính án thứ nhất. Tòa án Liên bang đã bác đơn kiện này trong tháng 8-2016, với lý do Ủy ban là tổ chức tư nhân, không phải là cơ quan chính phủ, nên không phải tuân theo tu chính án thứ nhất về quyền tự do báo chí và ngôn luận(9).

Cách thứ hai để hai đảng lớn loại bỏ ứng viên độc lập hay đảng thứ ba là việc “sử dụng” các quan điểm và ý tưởng của người khác. Luật pháp Mỹ không cấm việc đảng này sử dụng những chính sách của đảng kia trong quá trình vận động tranh cử. Những chính sách của ứng viên độc lập hay đảng thứ ba, vốn có thể là chìa khóa giúp họ giành được sự ủng hộ của cử tri, dễ dàng bị hai đảng lớn “nuốt chửng” mà tác giả của chúng không thể làm được gì. Bên cạnh việc “nuốt” ý tưởng, hai đảng lớn cũng “nuốt” luôn ứng viên tranh cử. Quá trình bầu cử sơ bộ là cơ hội để các ứng viên độc lập nhưng có tiềm năng cân nhắc việc tranh cử với tư cách là thành viên của một trong hai đảng lớn. Trước cuộc bầu cử tổng thống sơ bộ năm 2016, ứng viên Đ. Trăm của Đảng Cộng hòa và Thượng nghị sĩ Ben-ni Xan-đơ (Bernie Sanders) của Đảng Dân chủ thực chất đều là những ứng viên độc lập(10). Tuy nhiên, cân nhắc khả năng thắng cử, lựa chọn khả thi duy nhất cho họ là gia nhập hoặc Đảng Dân chủ hoặc Đảng Cộng hòa. Và nhiều ý tưởng trong Cương lĩnh tranh cử của Thượng nghị sĩ Xan-đơ đã được bà H. Clin-tơn và Đảng Dân chủ sử dụng trong Cương lĩnh tranh cử chính thức của Đảng Dân chủ.

Tựu trung, các ứng viên độc lập hoặc thuộc đảng thứ ba phải thực hiện bốn nhiệm vụ “bất khả thi” nếu muốn thắng cử: 1- Huy động đủ tài lực và vật lực để có tên trong danh sách bỏ phiếu và sau đó là để vận động tranh cử ở toàn bộ 50 bang trong cuộc đấu với hai chính đảng lớn; 2- Chiếm đa số phiếu ở những bang hội tụ đủ 270 phiếu đại cử tri; 3- Thuyết phục cử tri và các nhà tài trợ rằng ủng hộ hay đầu tư vào họ là “khôn ngoan”, không lãng phí và không phản tác dụng; 4- Chấp nhận những ý tưởng của họ vốn có thể giành được sự ủng hộ của hàng triệu cử tri, một ngày nào đó lại trở thành vũ khí lợi hại của đối thủ tranh cử với mình.

Những hệ lụy của hệ thống chính trị hai đảng

Một là, người dân Mỹ - với tư cách là cử tri và với tư cách là người tham gia hoạt động chính trị, đều không có nhiều lựa chọn. Là cử tri, trong các cuộc bầu cử, từ chính quyền địa phương, cấp bang, đến Quốc hội liên bang và tổng thống, họ buộc phải chọn một trong hai ứng viên của hai đảng chính, kể cả khi cả hai ứng viên đều khiến họ không hài lòng. Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016, có đến quá nửa cử tri không ủng hộ ông Đ. Trăm và bà H. Clin-tơn, mức thấp nhất kể từ năm 1984 đến nay, do họ không muốn phải chọn giữa một trong hai người(11). Giải pháp duy nhất đối với họ là bỏ phiếu cho người họ hài lòng nhiều hơn. Những người tham gia hoạt động chính trị dù không đồng tình với quan điểm của hai đảng chính, cũng chỉ có hai con đường: 1- theo đuổi lý tưởng của mình đến cùng và chấp nhận tồn tại như một đảng nhỏ không được mấy người biết đến: 2- tham gia một trong hai đảng chính để được gia nhập giới cầm quyền, đồng nghĩa với việc từ bỏ ước mơ và lập trường - những điều đã từng thôi thúc họ tham gia hoạt động chính trị.

Hai là, mọi vấn đề mà nước Mỹ phải đối mặt chỉ có thể được xem xét từ hai góc độ, mà hiện nay là của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa. Trên thực tế, hai đảng này không khác nhau về mục tiêu mà chỉ khác về phương thức thực hiện. Cả hai đảng đều chung niềm tin vào kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cùng mục tiêu duy trì chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu và đi kèm với nó là tình trạng bóc lột người lao động. Trong thời gian hai đảng chi phối nền chính trị Mỹ, lương cơ bản của công nhân Mỹ không đổi ở mức 6,15 USD/một giờ trong suốt 10 năm (từ 1997 - 2007) và cũng không thay đổi trong suốt 5 năm gần đây(12). Hai đảng chỉ khác nhau trong cách duy trì chế độ bóc lột này: Đảng Dân chủ chủ trương nhà nước can thiệp nhiều hơn vào nền kinh tế, trong khi Đảng Cộng hòa giữ mức can thiệp của nhà nước ở mức tối thiểu và để thị trường tự điều tiết.

Truyền thông cũng góp phần củng cố cách nhìn nhận mọi việc chỉ từ quan điểm tự do của Đảng Dân chủ hay quan điểm bảo thủ của Đảng Cộng hòa, từ các vấn đề nóng trong nước, như kiểm soát súng đạn, mâu thuẫn sắc tộc đến quan hệ đối ngoại của Mỹ. Điều này, như một luật sư Mỹ ở bang Ken-túc-ky (Kentucky) đã thừa nhận, “tạo ra ý tưởng lố bịch rằng mọi vấn đề của chính sách công có hai, và chỉ có hai cách tiếp cận. Đó là điều vớ vẩn” và nước Mỹ không thể giải quyết các vấn đề nếu không thảo luận một cách có lý trí(13).

Ba là, những ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống chính trị hai đảng đến cái gọi là nền “dân chủ” Mỹ, cụ thể là khái niệm về tự do và đa nguyên. Mỹ tự cho mình là quốc gia tự do nhất thế giới, nhưng đó là thứ tự do bầu cử khi người được bầu không phải là lựa chọn của cử tri. Và đó là thứ tự do thành lập đảng chỉ để ở vị trí đối lập và hầu như không có cơ hội thắng cử. Bên cạnh đó, việc chính trường Mỹ bị chi phối bởi hai đảng lớn đồng nhất về lập trường và mục tiêu thì cái gọi là “đa nguyên” chỉ là cái vỏ bề ngoài.

Những đảng có quan điểm thay đổi chế độ tư bản, như Đảng Cộng sản Mỹ thì “được bảo đảm” là không thể có bất cứ ảnh hưởng đáng kể nào trong nền chính trị Mỹ. Được thành lập từ năm 1919 nhưng Đảng Cộng sản Mỹ nhiều lần bị chính quyền nước này đặt ra ngoài vòng pháp luật; lãnh đạo và các đảng viên của đảng bị bắt, bị truy nã và còn bị phân biệt đối xử. Mặc dù kiên trung với lý tưởng cộng sản, Đảng Cộng sản Mỹ có vai trò và ảnh hưởng rất hạn chế. Cơ hội duy nhất cho các đảng thứ ba thay đổi vị thế của mình có lẽ chỉ khi một trong hai đảng lớn tự tan rã, như đã từng xảy ra với Đảng Whig trong quá khứ.

Bốn là, vị trí độc quyền chi phối nền chính trị Mỹ khiến hai đảng này không dựa trên lợi ích quốc gia, cũng như người dân để giải quyết các vấn đề của nước Mỹ, mà xuất phát từ lợi ích đảng phái, thậm chí là cá nhân hẹp hòi. Các nghị sĩ của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa có sự thù địch và thái độ bất hợp tác rõ rệt. Theo thăm dò của Viện Pew gần đây, có đến 36% số người thuộc Đảng Cộng hòa và 27% thuộc Đảng Dân chủ tin rằng chính sách của đảng kia là “mối đe dọa đối với quốc gia” và rằng phía bên kia quan tâm đến lợi ích của đảng mình hơn là tình hình đất nước. Kết quả là, có đến 80% người dân Mỹ bất mãn với Quốc hội và 60% người Mỹ muốn có những chính đảng mới(14). Tuy nhiên, với hệ thống chính trị Mỹ như hiện nay, từ mong ước đó đến hiện thực còn là một khoảng cách rất xa./.

---------------------------------------------

(1) Xem: Danh sách các đảng chính trị ở Mỹ, https://ballotpedia.org/List_of_political_parties_in_the_United_States, truy cập ngày 10-10-2016

(2) Xem: Danh sách các đảng chính trị ở Mỹ, sđd

(3) Hai thượng nghị sĩ độc lập là Thượng nghị sĩ Kinh An-gớt (King Angus, bang Maine) và Thượng nghị sĩ Bơ-nát Xan-đơ (Bernard Sanders)

(4) Matthew J. Streb: Rethinking American Electoral Democracy [Nghĩ lại về nền dân chủ đại cử tri của Mỹ], Nxb. Routlege, tái bản lần 2, 2011, tr. 84

(5) Bà H. Clin-tơn vận động được 795 triệu USSD, trong khi con số này của ông Đ. Trăm thấp hơn nhiều, chỉ hơn 403 triệu USSD. Xem: https://www.washingtonpost.com/graphics/politics/2016-election/campaign-finance/, truy cập ngày 15-10-2016

(6) Xem: http://heavy.com/news/2016/10/second-presidential-debate-2016-ratings-viewers-viewership-how-many-watched-hillary-clinton-donald-trump/, truy cập ngày 15-10-2016

(7) Xem: http://www.nytimes.com/1987/02/19/us/democrats-and-republicans-form-panel-to-hold-presidential-debates.html, truy cập ngày 15-10-16

(8) Xem: http://www.politico.com/story/2015/03/new-group-targets-commission-on-presidential-debates-116173, truy cập ngày 15-10-2016

(9) Xem: http://www.politico.com/blogs/under-the-radar/2016/08/judge-rejects-suit-against-presidential-debate-commission-226720?cmpid=sf, truy cập ngày 15-10-2016

(10) Ứng viên Đ. Trăm đã nhiều lần thay đổi từ Đảng Dân chủ sang Đảng Cộng hòa và ngược lại, ứng viên B. Xan-đơ là ứng viên độc lập trong suốt cuộc đời chính trị của mình và chỉ gia nhập Đảng Dân chủ khi quyết định tranh cử tổng thống

(11) Thăm dò của Đài truyền hình CBS (tháng 3-2016), tỷ lệ ủng hộ ông Đ. Trăm là 24%, không ủng hộ là 57%; tỷ lệ ủng hộ bà H. Clin-tơn là 31%, không ủng hộ là 52%

(12) Lương cơ bản ở Mỹ hiện là 7,25 USD/một giờ, duy trì từ năm 2009 đến nay. Xem: http://www.raisetheminimumwage.com/pages/qanda, truy cập ngày 16-10-2016

(13) Đây là lập luận của ông Cô-be-len (Cobelenz), luật sư đến từ thành phố Le-xing-tơn, bang Ken-túc-ky (Mỹ) và cũng là ứng viên cho vị trí Hạ nghị sĩ của Đảng Dân chủ tại quận 6 của bang này. Xem: http://thehill.com/blogs/congress-blog/politics/267222-the-two-party-system-is-destroying-america, truy cập ngày 7-10-2016

(14) Xem: http://thehill.com/blogs/congress-blog/politics/267222-the-two-party-system-is-destroying-america, truy cập ngày 7-10-2016